Thứ Ba, 18 tháng 1, 2022

Dặm Trường Của Nam (Chương

"Dặm Trường Của Nam"

The Long Path of Na


"The long path of Nam" is like an old vase with missing pieces. Only some of the story is told through what is present. Finding all of the lost pieces is a challenge to know the full story of "The long path of Nam".


"The history we know of"


"History is written by the victors," this quote is attributed to Winston Churchill but the actual origins is unknown. This makes one think about history in general and how many stories have gone untold and forgotten throughout time. It begs the question, Why is history only written by the winners? The simple truth is what we all know as the dark side of humanity. Of course the winners would want their story to be told in such a fashion that they are painted as the hero. No one wants to be perceived as the villain and so it makes one wonder about the full story.


The Long Path of Nam

(1940-1949) 

Chapter one.


Trăm năm trái đất xoay tròn,

Đêm qua ngày tới vẫn còn trăng sao.

Cuộc đời như giấc chiêm bao,

Tỉnh mơ thức dậy hồn sao rã rời.

Trải qua bao cuộc đổi đời,

Bể dâu chìm nổi, con người hợp tan.

***

Rằng năm Đinh Sửu tháng nhì [2-1997]

Mùa đông bắc Mỹ, tuyết thì đang rơi.

Trong nhà lò sưởi than vơi,

Củi lan bốc cháy tràn hơi lửa nồng. 

Ngẩn ngơ ngắm cảnh chiều đông,

Tuyết rơi phủ trắng, đường không bóng người.

Ngồi bên cửa sổ nhìn trời,

Nhớ về dĩ vãng một thời tuổi xuân.

Bâng khuâng nhẩm đọc mấy vần,

Dở xem trang chuyện “Đoạn Trường Tân Thanh”.

Ngoảnh nhìn quá khứ trôi nhanh,

Sử xanh chép lại những trang phũ phàng.


"Bên dòng lịch sử" Việt Nam,

Cha Cao Văn Luận đã ghi chép rồi.

Rõ ràng nước đục bèo trôi,

Một cơn địa chấn triệu người bỏ thây.

Bắc-Nam nhuộm đỏ máu đầy,

Chiến tranh tàn phá, đạn cày, bom rơi.

Sài Gòn, Hà Nội, tơi bời.

Đau thương tang tóc ngục tù khắp nơi.

"Bên dòng lịch sử" đầy vơi,

Mỗi lần đọc lại từng nơi dặm Trường.


Phản Minh giết Chúa giữa đường,

Thiệu, Kỳ, cuốn gói, chiến trường bỏ quân.

Tàn binh như rắn mất đầu,

Tướng hùng tử tiết, quân trung giữ cờ.

Sài Gòn thất thủ hạ cờ,

Hàng Xanh cửa ngõ quân Hồ tiến vô.

Thị Nghè dân chúng đổ xô,

Kẻ cười, người khóc, ra vô thẫn thờ.

Đêm dài nghiệt ngã đang chờ,

Bóng đen tăm tối mịt mờ vây quanh.

"Bên dòng lịch sử" bức tranh,

Diệm, Nhu, Hồ, Giáp, Duẫn canh bạc này.

Tướng quân bại trận tù đày,

Triệu dân Nam Việt đêm ngày khổ đau.

Ai gây bao cảnh thảm sầu,

Da vàng máu đỏ, tóc màu giống nhau.

Tay sai cộng sản Nga-Tàu

Ngoại bang Pháp-Mỹ đấu thầu chia bai.

Nạn nhân cộng sản độc tài,

Nhồi da xáo thịt, trong ngoài núi sông.

Ác nhân, Hồ, Duẫn, Giáp, Đồng...

Rước nôi cộng sản về dày tổ tiên.

Núi xương sông máu ba miền.

Nợ chồng nghiệp chướng, gông xiềng trăm năm.

***

Bảy Lăm [30-4-1975] di tản bỏ làng,

Bỏ nhà bỏ nước vội vàng ra đi.

Sài Gòn hôm ấy lâm nguy,

Bốn phương Cộng Sản ầm ầm tiến vô.

Siết vòng vây bọc Thủ đô,

Sân bay pháo kích, bến tàu chặn ra.

Tăng gầm nghiền nát vườn nhà,

Dầu dây, Gò Vấp, ngã ba Biên Hoà.

Bên cầu lính Thiệu dãn ra,

 [CTT Nguyễn Văn Thiệu-Cầu Phan Thanh Giản]

Dàn quân tử thủ ở ngoài Hàng Xanh.

Phản Minh lên máy Truyền thanh, (Dương Văn Minh)

Dụ quân gọi Tướng, phải nhanh đầu hàng.

Lệnh cho ngân khố giữ vàng,

Thay quần đổi áo, sắp hàng rời dinh.

Sài Gòn chấn động rùng mình,

Như đang ở giữa vũng sình bùn đen. 

Đầy đường xe chạy người len,

Chạy xuôi chạy ngược, chen nhau đi đầu.

Tắc xi [Taxi] rồ máy qua cầu,

Rẽ vô mấy xóm nhà lầu dân sang.

Gọi tên bảo khách sẵn sàng,

“Vàng, đô la Mỹ [dollars] hột xoàn mang theo”.

Bạch Đằng tàu lớn nhổ neo,

Vội vàng rời bến chạy mau xa bờ.

Đêm khuya sông nước lặng lờ,

Nam nhìn trở lại cứ ngờ chiêm bao.

Trên không phản lực kêu gào,

Trực thăng đáp vội bốc ào người đi.

Ngày đêm Hai Chín Tháng Tư, [4-29-1975]

Bỏ tòa Đại Sứ Hoa Kỳ rút nhanh.

Ngoài khơi Chiến Hạm ngồi canh,

Trước Dinh Độc Lập xúm quanh chờ hàng.

Bảy lăm [1975] bao chuyện phũ phàng,

Gặp Nam ngày ấy vội vàng chia tay.


Làng Văn trong truyện: Dặm Trường Của Nam.


Làng Văn có một cây Bàng,

Sống trên trăm tuổi cả làng biết tên.

Tiếng đồn linh hiển đã nhiều,

Người cầu gặp phước, kẻ xin xăm bà.

Miếu ông, Đình tổ, Sơn Trà,

Trái vàng chín mọng bên nhà mái hiên.

Cổng đình cây cảnh Đào tiên,

Lưa thưa khóm trúc Thuỷ tiên mới trồng.

Nhìn xa bát ngát mênh mông,

Rợp màn mây trắng trên nền trời xanh.

Gấm Hà Đông đẹp như tranh,

Lụa Làng Văn đã ghi vào sử xưa.

Đất người dầm dãi nắng mưa,

Nghề nông khuya sớm, muối dưa mặn mà.

Đường vào làng rộng cổng cao,

Bên đường có những cầu ao dãy dừa.

Hai hàng cây Phượng lưa thưa,

Màu hoa đỏ tím buổi trưa mùa hè.

Nắng vàng nhuộm lá cành tre,

Sáo con gọi mẹ không nghe trả lời.

Giữa đường đám trẻ rong chơi,

Thả Diều đánh đáo, vẽ vôi thành hình.

Phía bên phải là ngôi đình,

Có cây cầu đá uốn mình bắc sang.

Dưới hồ sen nở ngổn ngang,

Lục Bình từng cụm toả loang quanh đình.

Nước trong nhìn đám cá rình,

Đứng trên cầu đá mái đình ngói nhô.

Ngôi đình ngói cũ tường thô,

Ở trên đỉnh nóc chim bồ xỉa lông.

Bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông,

Đình thơm hương khói cúng ông thờ bà.

Cuối làng cổng lớn đi ra,

Bờ ao giếng nước cây đa chọc trời.

Cành to lá rậm rễ trồi,

Cây đa cổ thụ năm rồi bị sâu.

Bên sông là xóm Làng Bầu,

thường nghe tiếng vọng chuông chầu mỗi đêm.

Một dòng chia cắt đôi bên,

Sông sâu bến vắng nhiều đêm chờ đò.

Bên này cố gắng gọi to,

Bên sông gõ mõ nhắn đò sẽ sang. 

Hai con đê bọc hai làng,

Bên sông làng giáo bên này làng lương.

Đò ngang nối giữa thông thương,

Mỗi lần đông khách vẫn nhường nhịn nhau.

Mỗi năm nước lũ tràn về,

Hai làng chung sức đóng kè giữ đê.

Mỗi năm nước cạn mùa hè,

Trai làng chia nhóm cặp kề hội bơi.

Giáng Sinh, Rằm, Tết cúng trời,

Đám tang đám cưới, vẫn mời gọi nhau.

Năm xưa Hưng Đạo đánh Tàu,

Sông này chặn giặc thắng Tàu giệt Mông.

Bảy Trăm Năm [700] nước ngược ròng

Đò ngang, đò dọc, vẫn còn dọc ngang.

****

Trường làng ở phía sau làng,

Bên đồi nghĩa địa kế hàng cẩm dương.

Nhìn ra thấy mái nhà trường

Ngói màu đã cũ vôi tường xám nâu.

Dưới đồi là cánh đồng màu,

Trồng ngô khoai lúa, dâu bầu đậu dưa.

Năm nay đất mới vừa bừa,

hãy còn khô cứng phải chờ trời mưa. 

Trường này xây dựng năm xưa,

Dân làng chung vốn mộc cưa giúp nghề.

Trên đồi nhìn thấy sông quê,

Vườn dâu bãi mía con đê chạy dài.

 Một dòng chẽ nhánh chia hai,

Giữa cồn đất nổi là khu làng chài.

Cát vàng nhuộm ánh nắng mai,

Bên kia bến vắng tiếng ai gọi đò.

Thủy triều con nước nhỏ to,

Dâng lên rút xuống theo đò ngược xuôi.

Trường Làng Văn đã dưỡng nuôi,

Bao nhiêu thế hệ trôi theo dòng đời.

****

Cuối hè chuyển bánh sang thu,

Ngày trời nắng nóng đêm mù sương sa.

Lá xanh cây đã ngửi mùi,

Chuyển vần thời tiết chờ thu đến gần.

Cổng trường nhộn nhịp bước chân,

Rộn ràng cười nói ân cần hỏi han.

Vén tay kẹp sách hai hàng,

Nhận thầy cô giáo xếp hàng trước sân.

Trần Nam bạn học Nguyễn Hiền,

Cùng thằng Lê Dũng chơi nghiền đáo bi.

Ba thằng bạn học bỏ thi.

Dở văn, chậm toán, lấy gì điểm cao.

Mỗi ngày chui cổng ra vào,

Bữa thì trốn học, bữa thì bỏ môn.

Toán văn lịch sử bị dồn,

Xếp hàng cuối lớp, nạp bài đứng sau.


Ghi chú: Thêm đoạn này. 

Nội tâm, ngoại hình, suy nghĩ của từng nhân vật, Nam, Hiền, Dũng. Cần viết thêm và mô tả rõ nét hơn..!


**** 

'Quốc văn đồng ấu' học rồi

Quốc văn sơ đẳng bắt đầu làm quen.

Bút nghiên giấy mực sách đèn,

Học hành chăm chỉ phải rèn luyện thân.

Trường Làng lên huyện không gần,

Xa hơn trường tỉnh còn nhiều gian nan.

Tìm lim gụ phải lên ngàn,

Muốn qua sông lớn phải tìm đò ngang..!

Thêm đoạn này.

.........


 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét